Xã hội Bát_Kỳ

Khái quát

Chế độ Bát kỳ "Dĩ Kỳ thống quân, dĩ Kỳ thống nhân"[note 11], ngoài ra còn quản lý hành chính, kinh tế cùng với tổ chức gia tộc. Dưới Ngưu lục Ngạch chân thiết lập 2 chức Phó, lại thiết lập 4 Bạt thập khố, quản lý thôn làng đồn điền. Ngưu lục Ngạch chân và cấp phó quản lý tất cả những vấn đề về quân sự, dân chính, kinh thế, đất đai, tố tụng và hôn sự tang sự các loại, nhưng chủ yếu vẫn là quân sự. Binh lính Bát kỳ "Xuất tắc vi binh, như tắc vi dân", bình thường vẫn canh tác săn bắn, lúc có chiến tranh thì sẵn sàng xuất chinh. Lúc xuất chinh, thu bất kỳ tài vật gì cũng phân phối theo quân công.

Kinh tế

Trước kia, trong quan niệm của người Mãn Châu, tất cả những tài nguyên như sông ngòi, đất đai, rừng rậm, thậm chí là không khí, ánh mặt trời đều là những thứ thuộc sở hữu chung. Sau khi thành lập Hậu Kim, quan niệm "Đất đai công hữu" này vẫn còn ảnh hưởng lớn, Nỗ Nhĩ Cáp Xích kết hợp với chế độ Bát kỳ đã đem đất đai chia cho người Bát kỳ theo đầu người.

Hôn nhân

Trong dân chúng

Hiện nay, có nhiều người, thậm chí các học giả nhận định rằng, thời Thanh cấm việc kết thông gia giữa người Mãn và người Hán, chính là nói đến lệ "Mãn Hán bất thông hôn". Điều này xuất phát từ một Dụ chỉ của Từ Hi Thái hậu vào năm Quang Tự thứ 26 được ghi chép trong "Đức Tông Thực lục": "Mãn Hán thần dân... theo thông lệ cũ không được thông hôn. Nguyên nhân là lúc sơ kỳ nhập quan, phong tục tiếng nói, hoặc có nhiều thứ chưa rõ ràng, nên đã ban bố lệnh cấm. Nay lập tức... khai trừ thử cấm... chuẩn kết hôn lẫn nhau, không cần câu nệ"[note 12].

Mặc dù vậy, các nhà sử học, nhà nghiên cứu liên tục tra khảo các tài liệu văn hiến sớm hơn nhưng hoàn toàn không tìm được bằng chứng cho "lệnh cấm" này trong luật lệ của nhà Thanh. Ngược lại, trong "Thanh sử cảo - Thế Tổ bản kỷ" đã ghi chép lại một dụ chỉ vào tháng 5 năm Thuận Trị thứ 8 (1651): "令满, 汉官民得相嫁娶 - Lệnh quan dân Mãn Hán phải cưới hỏi lẫn nhau".

Theo ghi chép trong "Vinh Hiến lục": "按国制, 皇后诸妃及凡满洲之正室皆不与汉人联姻 - Án theo quốc chế, Hoàng hậu chư Phi cùng với Chính thất của người Mãn Châu đều không cùng "dân nhân" quan hệ thông gia". Nói cách khác, chính thê của "Kỳ nhân" không thể là "Dân nhân", mà nạp thiếp các loại thì tùy ý.

Vì vậy, theo tất cả những nghiên cứu trước mắt, vốn không có lệnh cấm "Mãn - Hán bất thông hôn", mà chỉ có "Kỳ - Dân bất thông hôn". Cũng tức là trong việc kết hôn, "Không hỏi Mãn - Hán, chỉ hỏi Kỳ - Dân"[56]. Mặc dù vậy, những điều này luôn có một số ngoại lệ nhất định. Vào thời Thanh, Kỳ nhân và Dân nhân thông hôn có 2 loại phương thức đặc thù:

  1. Kỳ nam cưới Dân nữ làm thê hoặc thiếp, kết quả là Dân nữ nhập kỳ, cũng có khi sẽ đổi họ sang họ của người Mãn (Điển hình nhất là trường hợp của Thuần Huệ Hoàng quý phi).
  2. Kỳ nữ gả cho Dân nam, kết quả Kỳ nữ thoát ly Kỳ tịch.

Cả 2 loại thông hôn này, từ Thanh sơ đến Thanh mạt, đều rất thường thấy, có thể thấy được giới hạn trong việc hôn nhân này cũng không nghiêm khắc lắm.

Trong cung đình

Mặc cho lệ "Kỳ - Dân bất thông hôn" như trên, việc "Hán phi" xuất hiện trong cung đình là một việc không quá hiếm gặp. Hán phi ở đây chính là nói đến những phi tần vốn là "Dân nhân", không hề có hộ tịch Bát kỳ. Bởi theo quan điểm thời Thanh, Bát kỳ còn gọi là Bát kỳ Mãn Châu, tức người có hộ tịch Bát kỳ đều có thể xem là người Mãn Châu; vì vậy xưng hô "Hán phi" là dùng để chỉ người không có hộ tịch, không bao gồm những người thuộc vào Hán quân Bát kỳ.

Việc nạp "Hán phi" vào cung tương đối "thịnh hành" vào thời Thuận Trị, Khang HiCàn Long. Thời Thuận Trị, nổi bật nhất là trường hợp của Khác phi Thạch thị. Năm Thuận Trị thứ 5 (1648), Thuận Trị Đế liên tiếp hạ hai dụ chỉ về việc liên hôn Mãn - Hán (tức Kỳ - Dân), ý tứ là: "Quan Mãn Châu cưới con gái người Hán làm vợ đều báo lại. Còn người thường không cần báo", đặc biệt sau đó Thuận Trị Đế còn tự “thử nghiệm” mà tuyển Hán nữ nhập cung. Khi ấy, Thạch thị từ Loan Châu xứ Hà Bắc được chọn, vào cung phong Phi, sống tại Vĩnh Thọ cung, còn cho phép dùng quần áo người Hán. Điều này cho thấy một bộ mặt phong phú và cởi mở của người Thanh với người ngoại tộc, khác hẳn những gì đại đa số tưởng tượng.

Từ thời Khang Hi, vì quan niệm "môn đăng hộ đối", người Bát Kỳ và dân đen không liên hôn dần thành lệ bất thành văn, cho nên tình huống “quang minh chính đại” nghênh thú Hán phi triều Thanh cũng dần thu hẹp. Một ít hồ sơ trong cung cho thấy, Khang Hi Đế cùng Càn Long Đế, đã thông qua các quan viên địa phương ở Giang Nam mà mua về một số cô gái trẻ, đều con nhà nghèo hèn, vào cung dạy dỗ mà làm Cung nữ tử. Những cô gái ấy lớn lên, liền được mệnh cho Hoàng đế lâm hạnh, trở thành Hậu cung chủ vị. Nhưng do vấn đề về hồ sơ, cũng không rõ ràng xuất thân của các hậu cung chủ vị triều Khang Hi, theo suy đoán mà đại đa số nghi ngờ, thì “Hán phi” triều Khang Hi có Hi tần Trần thị hoặc Tương tần Cao thị, đều có thể là Cung nữ tử người Hán được lâm hạnh.

Trái lại, việc Càn Long Đế nạp Hán phi lại có khá nhiều hồ sơ rõ ràng. Năm Càn Long thứ 40 (1775), ngày 7 tháng 12, Phúc Long An thượng tấu cho Càn Long Đế có nội dung: "Nô tài Phúc Long An cẩn tấu. Ngày 18 tháng này phụng chỉ: Lâm Quý nhân nhập Nội vụ phủ kỳ đương. Khâm thử. Nô tài phụng chỉ, đem điều tra hộ khẩu nhà Lâm Quý nhân, nhập vào Hóa Tề quản lĩnh của Nội vụ phủ Tương Hoàng kỳ làm một người Kỳ thuộc, cùng với các Kỳ dân của kỳ ấy đều tạo kỳ đương"[note 13].

Vị Lâm Quý nhân này tức là Cung tần Lâm thị, qua đây ta cũng thấy rõ vị Lâm thị này vốn là dân Hán bình thường được “giả mạo hồ sơ” mà làm người Bát Kỳ, thuộc Nội vụ phủ Thượng tam kỳ Bao y. Lại như năm Càn Long thứ 43 (1778), thân thích từ Dương Châu của Minh Quý nhân đi vào Bắc Kinh, tìm đến quan viên Nội vụ phủ, nói mình là “Anh trai của Minh Quý nhân, vì sinh hoạt khốn khó, nay đến mưu cầu chức quan”, vị Minh Quý nhân này chính là Phương phi Trần thị. Đây là những tiêu chuẩn cho khái niệm “Hán phi” mà mọi người thường nhắc đến.

Đến khi Càn Long Đế sắp qua đời, ông yêu cầu quan viên Nội vụ phủ sửa sang “ký lục” lại gia thế các vị Hán phi mà ông đã nạp từ đầu khi cai trị đến nay. Trong hồ sơ ấy có chỉ ra rõ:

Có thể thấy được, Càn Long Đế có ít nhất 5 vị “Hán phi” chắc chắn về xuất thân, trong đó có một vị đạt tới Hoàng quý phi, cũng xem là khó thấy

Như vậy, việc tuyển chọn con gái phía Nam, tìm mọi cách để đưa vào cung, bắt đầu từ triều Khang Hi đến tận triều Gia Khánh mới chấm dứt. Tuy nhiên, do "tác động nội bộ" mà "Hán phi" ngoại trừ Khác phi Thạch thị, còn lại đều "không tồn tại" về mặt chế độ, nhưng lại được "ngầm thừa nhận" tồn tại về mặt thực tế.

Giáo dục

Trong dân chúng

Năm Thiên Mệnh thứ 6 (1621), Nỗ Nhĩ Cáp Xích ra lệnh: "Chuẩn cho tám người là Thác Y, Bác Bố Hắc, Tát Cáp Liên, Ô Ba Thái, Nhã Tinh A, Khoa Bối, Trát Hải và Hồn Đại trở thành Sư phó của Bát kỳ", yêu cầu họ "Chuyên tâm dạy dỗ môn khách học trò và thu nhận thêm đệ tử", bắt đầu cho việc đọc sách tiếp nhận giáo dục của con em Bát kỳ.

Năm Thiên Thông thứ 4 (1630), A Mẫn không giữ được thành thì bỏ lại bốn thành mà chạy, trước đó còn ra lệnh cho quân "đồ thành"[note 14]. Hình ảnh này đối nghịch hoàn toàn với việc quân dân nhà Minh thà "ăn thịt người" cũng quyết cố thủ bảo vệ thành trong trận chiến trước với nhà Thanh. Điều này khiến cho Hoàng Thái Cực nhận ra được sự quan trọng của giáo dụ "trung quân", liền ra lệnh "Từ nay, phàm là con em Bát kỳ từ 8 đến 15 tuổi đều phải đọc sách", những người không tuân theo sẽ lấy danh nghĩa "quá nuông chiều" mà xư phạt cha mẹ, người giám hộ của kẻ đó, thậm chí cách chức. Chỉ dụ này đã mở ra thời kỳ "Toàn dân giáo dục bắt buộc" của người dân Bát kỳ. Về sau khi xác lập chế độ, triều đình vì để cổ vũ cho phong trào hiếu học, đã ban thưởng vải vóc cho những con em ham học, chịu đọc sách, thậm chí miễn trừ lao dịch. Từ đó, phong trào hiếu học này càng lúc càng đi lên.

Năm Thuận Trị đầu tiên (1644), sau khi nhập quan, triều đình bắt đầu thiết lập các thư viện dành cho con em Bát kỳ các gia đình đã theo quân nhập quan, lại tuyển thêm các giáo viên Mãn ChâuMông Cổ để dạy học ở các thư viện, mở ra chế độ "Quan học" ở triều Thanh. Tuy nhiên, "Quan học" chưa phải là toàn bộ nền giáo dục của nhà Thành, ngoài ra còn có "Tông học" và "Giác La học" dành cho Tông thất Ái Tân Giác La, lại có "Cảnh Sơn quan học" và "Hàm An cung quan học" dành cho con em Nội vụ phủ Tam kỳ và những nhân tài xuất sắc khác trong Bát kỳ.

Khang Hi ĐếUng Chính Đế lần lượt mở "Cảnh Sơn quan học" và "Hàm An cung quan học" cho con em Nội vụ phủ, phân biệt là 382 vị trí và 90 vị trí, không chỉ được các giáo viên ưu tú trong triều đình giảng dạy mà còn được "bao có công việc" sau khi học hành xong, thông qua khảo hạch mà nhậm các chức vụ, công việc trong triều đình, Nội vụ phủ. Cảnh Sơn quan học có chế độ nhập học tương tự với Quan học, đều là nhập học từ 8-15 tuổi, còn Hàm An cung quan học thì nhập học từ 15-20 tuổi, tương tự với việc học xong tiểu học thì lên trung học hiện nay. Cuối thời Ung Chính, cân nhắc đến vị trí đặc thù của Hàm An cung quan học, Ung Chính Đế đặc biệt hạ chỉ cấp cho mỗi kỳ 10 danh ngạch nhập học, không yêu cầu xuất thân, chỉ cần có tài, được tuyển chọn thì đều sẽ được triều đình dốc lòng bồi dưỡng. Ngay cả Hòa Thân nổi tiếng một thời chính là đã dùng thân phận Tú tài Chính Hồng kỳ thì vào Hàm An cung quan học.

Năm Càn Long thứ 3 (1738), Đại thần chịu trách nhiệm quản lý Quốc tử giám là Tôn Gia Cam tấu lên Càn Long Đế, về việc định ra ba năm đầu của việc học là ba năm "cơ sở", học sinh chủ yếu các kiến thức cơ sở, trọng điểm tập trung vào giảng giải và kiểm tra kinh thư, sau ba năm lại căn cứ vào tình hình thực tế của học sinh mà phân ra Hán văn quán, Mãn Châu quán hay Mông Cổ quán tiếp tục được bồi dưỡng chuyên nghiệp.

Thời gian học tập và nghỉ ngơi trong Quan học cũng thay đổi theo mùa hạ và mùa đông, mùa hạ bắt đầu từ tiết Đoan Ngọ, mỗi ngày giờ Mẹo (5 giờ sáng) đến trường, giờ Mùi (1 giờ chiều) tán học, mùa thu bắt đầu từ Trung Thu, mỗi ngày giờ Thìn (7 giờ sáng) đến trường, giờ Thân (3 giờ chiều) tan học.

Trong các Vương phủ

Ngoại trừ Quan học dành cho con em Bát kỳ thông thường, trong nội bộ gia tộc Ái Tân Giác La cũng thiết lập "Tông học" cho con em Tông thất và "Giác La học" cho con em Giác La. Về cơ chế không khác mấy so với Quan học. Tuy nhiên, thực tế thì Tông học thường chỉ có con em của "Nhàn tản Tông thất" đến học, toàn bộ học phí đều do triều đình cung cấp. Còn lại trong các Vương phủ, hầu hết tất cả đều lập "Gia thục" (có thể xem là một trường học nhỏ tại nhà) hoặc mời thầy giáo về dạy. Theo nhà nghiên cứu Quất Huyền Nhã, hiện nay chưa thấy hồ sơ nhắc đến việc các Vương phủ đưa con em đến Tông học để học tập.

Trước khi chính thức đi học, thường thì các trẻ con trong phủ sẽ được dạy vỡ lòng trước, nhận biết một số mặt chữ. Việc dạy vỡ lòng này hầu hết đều do các nữ trưởng bối trong nhà đảm nhiệm, như mẹ, bà nội hoặc cô; cũng có lúc là giao cho anh trai hoặc chị gái dạy; thậm chí thời Vãn Thanh còn có trường hợp do Thái giám dạy.

Tương tự như Quan học, đến khoảng năm 8 tuổi, tất cả trẻ con trong Vương phủ sẽ chính thức đi học. Nơi học tập ở mỗi vương phủ đều được đặt ở Thư phòng hoặc Tiểu thư phòng trong phủ, trên giấy tờ thì gọi là "Gia thục". Thời gian học trong Gia thục không được quy định chung mà sẽ tùy tình hình mỗi phủ sẽ có những quy định khác nhau, nhưng thường đều là buổi sáng học đến giữa trưa, sau đó lại học thêm một phần vào buổi chiều. Như Thuần vương phủ học từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa, lại tiếp tục học từ 1 giờ chiều đến 4 giờ chiều. Không như chế độ có ngày nghỉ trong tuần hiện nay, ngày nghỉ trong các vương phủ chỉ rơi vào những ngày lễ như Thanh minh, Đoan ngọ, Trung thu,... Có lúc được nghỉ cả ngày, có lúc chỉ được nghỉ nửa ngày. Ngoài ra còn có nghỉ đông, thường đều bắt đầu vào khoảng trước sau ngày 20 tháng chạp và kết thúc vào trước sau ngày 20 tháng giêng năm sau. Tuy nhiên, trong các kỳ nghỉ đều sẽ có "bài tập về nhà". Mặc dù vậy, tùy theo từng phủ mà có ngày nghỉ thường nhật, có phủ được nghỉ vào ngày 5 (tức ngày 5, 15, 25), có phủ được nghỉ vào ngày 10 (10, 20, 30).

Quá trình đi học mỗi ngày thường là các thầy dạy sẽ đến sớm một ít, sau đó các chủ nhân nhỏ sẽ đến. Sau khi vào cửa, các học sinh sẽ phải chắp tay thi lễ với bài vị Khổng Tử, sau đó lại thi lễ với thầy dạy, sau đó mới bắt đầu học. Đến giữa trưa thì nghỉ ngơi ăn uống, thức ăn của các thầy dạy đều do vương phủ cung cấp, sau khi nghỉ ngơi thì bắt đầu giờ học buổi chiều.

Về thầy dạy, bình thường đều chia thành "Hán văn Lão sư" và "Mãn văn Am đạt". Đôi khi "Mãn văn Am đạt" và "Mãn văn Lão sư" là 2 người khác nhau, nên thông thường sẽ có từ 2 đến 3 thầy dạy. Hán văn Lão sư bình thường đều là người nổi danh trong xã hội, chính là các văn học danh sĩ đương thời, nhưng đa số không phải quan liêu, mà đều là do các quan viên có quan hệ tốt đề cử đến. Mãn văn Lão sư chính là dạy Mãn văn cùng Mãn ngữ, còn Mãn văn Am đạt dạy cưỡi ngựa bắn cung. Ở một số phủ, Mãn văn Lão sư và Mãn văn Am đạt là do cùng một người kiêm nhiệm, một số phủ khác thì là 2 người. Nhưng bất kể là Mãn văn Lão sư hay Mãn văn Am đạt, bình thường đều là người thân thuộc của phủ hoặc thuộc nhân.

Về nội dung học tập, mỗi thầy dạy sẽ có những mục phụ trách riêng.

  • Do Hán văn Lão sư dạy sẽ có:
  1. Chữ (Tự): nhận chữ, luyện chữ (bao gồm tiểu Khải, đại tự, tập viết theo mẫu chữ,….)
  2. Kinh thư: chính là Tứ thư Ngũ kinh
  3. Tiểu học: từ lý giải các “Tự” đến các loại điển cố, điển tích.
  4. Sách sử: như Thông Giám, Tiền tứ sử,…
  5. Văn nghệ: như thi từ, câu đối
  6. Đặc thù: tùy từng phủ, có phủ sẽ học về Thánh huấn các loại
  7. Thư tịch cho trẻ con: có phủ chỉ nhập học 1 quyển rồi chuyển sang kinh thư rồi
  • Do Mãn văn Lão sư dạy sẽ có:
  1. Mãn văn: nhận, đọc, viết
  2. Phiên dịch: Hán dịch sang Mãn, Mãn dịch sang Hán
  3. Giao tiếp bằng tiếng Mãn
  • Do Mãn văn Am đạt dạy sẽ có:
  1. Cưỡi ngựa
  2. Tập võ

Ngoài ra, tùy thói quen mỗi phủ mà nội dung dạy cũng bất đồng, thời Vãn Thanh còn có phủ dạy Anh văn. Mãn văn Am đạt chủ yếu là dạy “Khóa thể dục”, cưỡi ngựa bắn tên, thậm chí là mang các chủ nhân nhỏ ra ngoài leo núi. Tuy nhiên, chương trình học trong mỗi phủ cũng không giống nhau. Có phủ mỗi ngày đều sẽ có giờ học Mãn ngữ văn, nhưng thể dục thì lâu lâu mới có một buổi. Có phủ lại mỗi ngày đều có nửa canh giờ để học kéo cung,...

Tương tự như việc học hiện nay, việc học trong vương phủ cũng có việc kiểm tra. Trong ghi chép của Phổ Kiệt có nhắc đến, chiều nào sau khi tan học, ông cũng phải đi thỉnh an mẫu thân. Sau đó thì nộp công khóa trên lớp lên, học là đọc bài học thuộc lòng. Trên công khóa cũng sẽ có ngoắc ngoắc xoa xoa (ý chỉ các đường đánh dấu, gạch chéo) để chỉ đúng sai, Phổ Kiệt nói: “Đọc không trôi chảy, liền sẽ nhận được phê bình không chịu học bài cho tốt, thậm chí có thể bị lớn tiếng trách cứ. Nếu vòng tròn đỏ quá ít, cũng sẽ bị nghiêm khắc răng dạy” (vòng đỏ chính là dấu √ thời bây giờ).

Việc đi học sẽ kéo dài trong nhiều năm, thời gian hoàn toàn chấm dứt tùy thuộc vào từng phủ, từng người. Nữ sẽ kéo dài đến khi đính hôn hoặc kết hôn thì chấm dứt, nam thì thường chấm dứt khi đến tuổi kết hôn hoặc bắt đầu làm việc. Nhà Thanh hầu hết đều đính hôn vào khoảng 15 tuổi, trễ hơn thì khoảng 17-18 tuổi.

Trong quá trình đi học, ngoại trừ các chủ nhân là đối tượng chính, còn có các "thư đồng" thường được nhắc đến trong các tác phẩm văn hóa giải trí. Tuy nhiên, ghi chép của nhà Thanh về "Thư đồng" tương đối hỗn loạn. Như Duệ vương phủ không hề có thư đồng, các A ca đi học phải tự mình cầm cặp sách. Về phần Thuần vương phủ mặc dù nói có 2 thư đồng trong Thư phòng, tuy nhiên lại là "lão thư đồng", khác biệt rất lớn so với hình tượng "Thư đồng" là "bạn học cùng đọc sách" trong suy nghĩ nhiều người hiện nay. Ở một số phủ khác thì Thái giám đắc lực sẽ đảm nhiệm luôn phần thư đồng, một số lại là do con em hạ nhân trong phủ đảm nhiệm. Tùy theo mỗi phủ mà có những tình huống khác nhau.

Khác với suy nghĩ của nhiều người rằng "nhà Thanh trọng nam khinh nữ", các Cách cách trong các vương phủ cũng được phép đi học như các A ca, thậm chí như Thuần Vương phủ thì tất cả Cách cách A ca đều học chung một nơi là Nhâm Chân đường, một số phủ khác thì Cách cách sẽ có nơi học riêng. Nhà Thanh hoàn toàn không có quan niệm "Nữ tử không tài chính là đức", bắt buộc phụ nữ chỉ được học các loại sách như "Nữ huấn" hoặc chỉ học may vá các loại. Những thứ như "Nữ huấn" đều là do những tác phẩm phóng tác trên đề tài Thanh cung khuếch đại lên gây lầm tưởng cho nhiều người. Mặc dù phụ nữ trong Vương phủ nhà Thanh cũng sẽ theo "Tam tòng tứ đức", cũng sẽ học may vá, nhưng hoàn toàn không phải chú trọng quá nhiều, bởi thân phận của họ đã định sẵn họ sẽ không tốn quá nhiều thời gian trong các công việc này. Thậm chí, thông qua lời kể của hậu duệ cua Duệ vương phủ, các Cách cách trong phủ thậm chí có người hoàn toàn không có khái niệm "Nữ công"

Ngược với suy nghĩ của nhiều người hiện đại, trình độ văn hóa của Tông nữ nhà Thanh tương đối cao. Từ Thanh sơ, liền đã có Tông thất nữ Thi nhân. Như tác giả của “Lan Hiên thi” là Lan Hiên chủ nhân (兰轩主人) – cháu nội của Thư Nhĩ Cáp Tề, tác giả của “Mộng Hoa Các thi” là Tương Sầm (湘岑) – tằng tôn nữ của Doãn Kỳ, còn có Huyện quân – cháu nội của Nhạc Lạc, và con gái của Tông thất là Dưỡng Dịch Trai Học Nhân (mẹ chồng của Lan Hiên chủ nhân). Đến Vãn Thanh, ý thức đối với giáo dục nữ tính bắt đầu hình thành trong xã hồi, bắt đầu xuất hiện “Nữ học”, trong đó phần lớn đều là do con gái hoặc vợ cả của các Tông thất đứng ra lập nên. Thập chí có cả các nàng tự mình dạy học[57].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bát_Kỳ http://jds.cass.cn/UploadFiles/zyqk/2011/10/201110... http://blog.sina.com.cn/s/blog_4c26e27b0101flae.ht... http://blog.sina.com.cn/s/blog_4c26e27b0102x1ez.ht... http://www.iqh.net.cn/info.asp?column_id=3974 http://www.iqh.net.cn/manage/uploadfiles/2008222/2... http://www.qinghistory.cn/qsyj/ztyj/ztyjzz/2009-11... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/181028 http://book.douban.com/subject/1024528/ http://books.google.com/books/about/The_Manchu_Way... http://m.wrlwx.com/Txt/XiaoShuo-159257.html